Tập hợp các câu chuyện chi tiết về những người cách mạng Việt Nam tiêu biểu như Nguyễn Khắc Nhu, Trần Cao Vân, Hoàng Cầm, Lý Tự Trọng… phản ánh tinh thần hy sinh và đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Sử liệu cổ xưa nhất về lịch sử Việt Nam còn tồn tại, Đại Việt sử lược tóm tắt từ thời Triệu Đà đến cuối thời Lý (khoảng thế kỷ 2 TCN đến năm 1225). Sách gồm ba quyển, trình bày sơ lược các triều đại đầu tiên, hệ thống triều đại Lý – Trần, với trọng tâm là thời Lý – thể hiện sự quan tâm đặc biệt của sử quan Trần Nguyễn đối với triều đại Lý. Không có tiểu mục chi tiết về triều Trần nhưng ghi tên niên hiệu các vua Trần sau.
Cuốn sử đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến đầu thế kỷ 20, trình bày liên tục mạch lạc, dễ đọc, chú trọng đời sống và xã hội dân chúng
Tập hợp 14 tùy bút và truyện ngắn của Nguyễn Tuân như Chữ người tử tù, Chén trà trong sương sớm, Vườn Xuân Lan Tạ Chủ, phản ánh văn hóa cổ xưa, thẩm mỹ phong kiến và nỗi nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trong thời hiện đại.
Công trình phê bình kinh điển đầu tiên chuyên đề phong trào Thơ Mới (1932–1941), giới thiệu tiểu sử, phong cách và tác phẩm tiêu biểu của các thi nhân tiêu biểu như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư…, giúp bạn đọc hiểu sâu sắc mạch cảm xúc và tư tưởng của thế hệ thi sĩ mới trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời tiền Cách mạng
Tập hợp ký ức tuổi thơ của một thế hệ con em gia binh sống tại khu tập thể Nam Đồng — khu gia binh lớn nhất Hà Nội — trong chiến tranh và hậu phương. Không có nhân vật chính cụ thể, mà là những câu chuyện sống động về tình bạn, tinh thần lính, trò nghịch ngợm, tình yêu đầu đời, nỗi nhớ cha mẹ và sự trưởng thành giữa khó khăn. Giọng văn vừa hài hước vừa nhân văn, khiến người đọc nhớ mãi.
Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Đó là lòng tiếc thương vô hạn đối với những người cùng thế hệ với mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa về quá khứ, những suy tư nghiền ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người.
Tập nhật ký viết tay của bác sĩ Đặng Thùy Trâm từ 1968 đến ngày chị hy sinh năm 1970. Giữa chiến trường Quảng Ngãi, từng trang nhật ký là những ghi chép cảm xúc, suy tư tuổi trẻ, tình đồng đội và hình ảnh chiến tranh khốc liệt. Nhờ người phiên dịch Mỹ, cuốn nhật ký không bị tiêu hủy, để rồi trở thành biểu tượng văn hóa và tinh thần của Việt Nam hậu chiến.
Đây là cuốn nhật ký đã làm rung động hàng triệu con tim của bạn đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết, tình yêu quê hương đất nước nồng nàn thể hiện qua những cảm nhận bình dị của tác giả trong suốt những chặng đường hành quân.
Đây là tiểu thuyết lịch sử 17 hồi viết bằng Hán ngữ, phản ánh giai đoạn cuối thế kỷ 18 tại Việt Nam – từ thời Trịnh Sâm đến khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước (1802). Tác phẩm miêu tả cuộc tranh đấu giữa tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh và phong trào Tây Sơn; đồng thời lần đầu khắc họa cuộc khởi nghĩa thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung chống quân Thanh, qua đó thể hiện cả bối cảnh sử học lẫn chiều sâu nhân sinh chính trị của đất nước giai đoạn xưa. Cuốn sách có cả giá trị lịch sử và nghệ thuật với lối kể dân gian sinh động, các nhân vật lịch sử hiện lên vừa lịch sử vừa là biểu tượng xã hội.
Tuyệt tác binh thư Trung Hoa cổ với 13 thiên chiến lược, phân tích nghệ thuật chiến tranh, chiến lược lãnh đạo và tâm lý đối thủ, ứng dụng đến kinh doanh hiện đại.
Hồi ký hành trình khám phá huyền môn Ai Cập cổ đại qua những trải nghiệm tâm linh, chiêm nghiệm về tượng Sphinx, lăng mộ và các bí mật siêu nhiên.
